Bài thu hoạch học tập nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thanh Hóa

Ngay bây giờ chúng tôi sẽ chia sẻ đến các bạn bài thu hoạch nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Với chủ đề: ” Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tranh thủ thời cơ vận hội mới. Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân phấn đấu đến năm 2020. Hãy cùng nhau tham khảo ngay bây giờ các bạn nhé!

Bài thu hoạch học tập nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thanh Hóa

Bài thu hoạch học tập nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đầy đủ và ấn tượng. Nhằm giúp các bạn làm bài thu hoạch nhanh chóng và thuận tiện nhất bổ sung cho mình những kiến thức hữu ích nhất. Mời các bạn cùng nhau theo dõi bài viết này ngay nhé!

Câu 1: Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong điều kiện như thế nào?

Trả lời:

Trong nhiệm kỳ 2010 – 2015, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc trong tỉnh tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn thách thức:

1- Thuận lợi: Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII trong điều kiện chính trị – xã hội ổn định; đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong nhân dân được tăng cường; tiềm lực kinh tế của tỉnh ngày càng lớn mạnh; quốc phòng, an ninh được đảm bảo; nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách cùng với sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả của Trung ương đã tạo điều kiện cho tỉnh có thêm nguồn lực để đầu tư phát triển.

2- Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do tình hình thế giới, khu vực và Biển Đông diễn biến phức tạp; trong nước, đầu nhiệm kỳ lạm phát tăng cao, kinh tế vĩ mô không ổn định; trong tỉnh, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường, cùng với những tồn tại, hạn chế trong nội tại nền kinh tế đã tác động bất lợi đến việc thực hiện nghị quyết đại hội.

Câu 2: Những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế nhiệm kỳ 2010 – 2015 là gì?

Trả lời:
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân trong tỉnh đã tranh thủ thuận lợi, vượt qua khó khăn, ra sức thi đua sản xuất, kinh doanh, đạt được những kết quả quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, cụ thể:

1- Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao nhất từ trước đến nay, năng lực sản xuất và quy mô nền kinh tế ngày càng tăng.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011 – 2015 ước đạt 11,4%, cao nhất trong gần 30 năm đổi mới. Năm 2015, GDP (theo giá so sánh năm 1994) ước đạt 34.891 tỷ đồng, gấp 1,7 lần năm 2010, xếp thứ 8 cả nước; GDP bình quân đầu người ước đạt 1.530 USD, gấp 1,9 lần, tăng nhanh hơn so với mức tăng trung bình của cả nước.

Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm ước đạt 4%, vượt mục tiêu đại hội. Giá trị sản xuất năm 2015 gấp 1,24 lần năm 2010.

Trong trồng trọt, nhiều loại giống mới năng suất, chất lượng cao được đưa vào gieo trồng; cơ giới hóa được đẩy mạnh ở một số khâu; năng suất hầu hết các cây trồng chính đều tăng; sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 1,69 triệu tấn, vượt mục tiêu đại hội.
Công tác đổi điền, dồn thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn được triển khai tích cực; các vùng trồng cây nguyên liệu phát triển theo quy hoạch; một số vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hình thành.
Chăn nuôi trang trại, gia trại phát triển mạnh; quy mô, chất lượng đàn gia súc, gia cầm được nâng lên; tỷ trọng đàn bò lai, bò sữa, lợn hướng nạc tăng cao. Dự án chăn nuôi bò sữa tập trung theo hướng công nghiệp hiện đại do Vinamilk đầu tư được triển khai.
Lâm nghiệp phát triển khá toàn diện, tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 ước đạt 52%, đạt mục tiêu đại hội. Sản xuất thủy sản phát triển cả đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ hậu cần; sản lượng năm 2015 ước tăng 35,9% so với năm 2010.
Công nghiệp – xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân hằng năm tăng 13,7%; năm 2015, giá trị sản xuất ngành công nghiệp gấp 1,94 lần; ngành xây dựng gấp 2,1 lần so với năm 2010.
Các sản phẩm công nghiệp truyền thống như: Xi măng, đường, thuốc lá, vật liệu xây dựng… duy trì tốc độ tăng khá.
Các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn như: Nhiệt điện Nghi Sơn 1, dây chuyền 2 Xi măng Công Thanh và nhiều nhà máy may mặc, giày da được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân.
Dịch vụ có chuyển biến tích cực cả về quy mô, loại hình và chất lượng. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm ước đạt 11,9%. Năm 2015, giá trị sản xuất gấp 1,8 lần năm 2010.
Thương mại nội địa phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; một số siêu thị, chợ đầu mối đã đi vào hoạt động; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ hằng năm tăng 23,9%.
Xuất khẩu tăng trưởng cao, giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu năm 2015 ước đạt 1,15 tỷ USD, vượt mục tiêu đại hội và gấp 2,9 lần năm 2010.
Hạ tầng các khu du lịch được đầu tư nâng cấp, môi trường du lịch được cải thiện, văn hóa du lịch được nâng lên, lượng khách và doanh thu du lịch tăng cao.
Dịch vụ vận tải phát triển đa dạng, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đi lại của nhân dân; lượng hành khách thông qua Cảng hàng không Thọ Xuân tăng nhanh và vượt quy hoạch đến năm 2020.
Dịch vụ bưu chính – viễn thông phát triển mạnh, mật độ điện thoại ước đạt 79,02 máy/100 dân, vượt mục tiêu đại hội. Dịch vụ ngân hàng phát triển theo hướng hiện đại.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn luôn vượt dự toán, tốc độ tăng thu trung bình đạt 11,8%/năm, tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân hằng năm đạt 8,3%; tổng thu ngân sách giai đoạn 2011 – 2015 gấp 2,5 lần giai đoạn trước, vượt mục tiêu đại hội. Chi ngân sách đáp ứng kịp thời nhiệm vụ trên các lĩnh vực.
Các thành phần kinh tế phát triển đa dạng. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý, hoạt động hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Năm 2015, đạt tỷ lệ 23,5 doanh nghiệp/1 vạn dân, tăng 10,1 doanh nghiệp so với năm 2010; quy mô, năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên; doanh thu giai đoạn 2011 – 2015 gấp 2,1 lần giai đoạn 2006 – 2010; nộp ngân sách nhà nước gấp 2,58 lần và chiếm 57% tổng thu nội địa; giải quyết việc làm cho khoảng 230 nghìn lao động, gấp 1,5 lần năm 2010.
Kinh tế hợp tác xã, tổ hợp tác và trang trại phát triển đa dạng cả về ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, với gần một nghìn hợp tác xã, 23 nghìn tổ hợp tác và 771 trang trại (theo tiêu chí mới), đã góp phần đưa tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung.

2- Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch đúng hướng, gắn với khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương:
Tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản trong GDP giảm từ 24,2% năm 2010 xuống còn 17,6% năm 2015; tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 41,4% lên 42%; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 34,4% lên 40,4%.
Trong nông nghiệp, tỷ trọng trồng trọt giảm từ 70,7% năm 2010 xuống 60,5% năm 2015; tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 26,6% lên 35,5%.
Lâm nghiệp chuyển từ khai thác rừng là chủ yếu sang bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng và khai thác rừng trồng.
Khai thác xa bờ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản xuất thủy sản.
Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng chi phối trong ngành công nghiệp. Đang hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp mới, hiện đại, đóng góp lớn vào giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh như: Lọc hóa dầu, sản xuất điện…
Cơ cấu vùng kinh tế chuyển dịch rõ nét theo hướng hình thành các vùng kinh tế động lực, khu kinh tế, các khu công nghiệp và các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Phân bố doanh nghiệp ngày càng hợp lý, từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng, miền; tỷ trọng doanh nghiệp vùng đồng bằng chiếm 60%, vùng biển chiếm 26%, vùng miền núi chiếm 14%.
Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, năm 2015 tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông, lâm, thủy sản giảm 11,2%, ngành công nghiệp – xây dựng tăng 8,4%, dịch vụ tăng 2,8% so với năm 2010.

3- Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ; huy động vốn cho đầu tư phát triển vượt kế hoạch; nhiều dự án lớn được khởi công; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Các chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế (PEII) tăng cao và nằm trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư được đổi mới, gắn hoạt động xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại và du lịch; nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư trong nước và nước ngoài được tổ chức. Giai đoạn 2011 – 2015, đã thu hút 560 dự án đầu tư (có 25 dự án FDI) với tổng vốn đăng ký 120.000 tỷ đồng và 2,56 tỷ USD (gồm cả dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 2); điều chỉnh tăng vốn 32 dự án FDI với số vốn tăng thêm 3 tỷ USD, nâng tổng số dự án FDI còn hiệu lực lên 59 dự án với tổng vốn đăng ký 12,8 tỷ USD, đứng thứ 6 cả nước.
Tổng huy động vốn đầu tư phát triển 5 năm ước đạt 322.936 tỷ đồng, vượt 4,2% mục tiêu đại hội, gấp 3,8 lần giai đoạn 2005 – 2010. Cơ cấu vốn đầu tư chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng vốn ngân sách, tăng nhanh vốn FDI, vốn tín dụng, vốn dân cư và các thành phần kinh tế khác.
Hệ thống đô thị phát triển theo quy hoạch, phân bố tương đối hợp lý giữa các vùng miền; toàn tỉnh hiện có 35 đô thị, gồm: 01 đô thị loại I, 02 đô thị loại III và 32 đô thị loại V. Tỷ lệ dân số đô thị đạt 25,8%, vượt mục tiêu đại hội.

Câu 3: Nhiệm kỳ 2010 – 2015, lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội có những tiến bộ gì?

Trả lời:
Lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; an sinh xã hội được chăm lo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, cụ thể:
Hoạt động khoa học – công nghệ đã tập trung nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Đã nghiên cứu đưa vào sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của địa phương; một số kỹ thuật cao được ứng dụng thành công trong khám, chữa bệnh; nhiều tổ chức, doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến.
Quy mô giáo dục phát triển hợp lý, chất lượng giáo dục đại trà được nâng lên; kết quả thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế và thi đại học luôn ở tốp đầu cả nước. Việc thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở các cấp học, bậc học có chuyển biến; chất lượng giáo dục miền núi được nâng lên; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở được giữ vững; hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi trước thời hạn; đã chuyển các trường mầm non bán công sang công lập; chỉ đạo giải quyết giáo viên dôi dư và chấn chỉnh việc tuyển dụng, điều chuyển, bổ nhiệm cán bộ, giáo viên; từng bước khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định và lạm thu trong các nhà trường. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 51,1%, vượt mục tiêu đại hội. Phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đẩy mạnh, đứng ở tốp đầu cả nước.

Quy mô, ngành nghề đào tạo các trường chuyên nghiệp, dạy nghề được mở rộng; nội dung, phương pháp đào tạo được đổi mới; liên kết đào tạo được chấn chỉnh. Trường Đại học Hồng Đức tiếp tục được đầu tư đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng; đã thành lập Trường Đại học Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Phân hiệu Đại học Y Hà Nội tại Thanh Hóa và một số trường cao đẳng nghề.
Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, nhiều kỹ thuật cao được ứng dụng thành công tại các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện. Công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Xã hội hóa y tế đạt khá, một số bệnh viện ngoài công lập hoàn thành và đi vào hoạt động. Các chỉ tiêu về y tế, chăm sóc sức khỏe, dân số – kế hoạch hóa gia đình đạt và vượt mục tiêu; có 90,9% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế (theo tiêu chí cũ).
Hoạt động văn hóa, thông tin, văn học – nghệ thuật: Đã tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, các sự kiện quan trọng của đất nước, của tỉnh; tuyên truyền tổ chức Năm Du lịch quốc gia 2015 – Thanh Hóa. Công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản được quan tâm; Thành Nhà Hồ được công nhận Di sản văn hóa thế giới, Khu Di tích lịch sử Lam Kinh, Khu Di tích Đền Bà Triệu được công nhận di tích quốc gia đặc biệt. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với phong trào “Chung sức xây dựng nông thôn mới” được đẩy mạnh. Các chỉ tiêu về văn hóa đều đạt và vượt mục tiêu. Hoạt động báo chí, phát thanh, truyền hình đổi mới cả về nội dung, hình thức, chất lượng được nâng lên; thời lượng phát sóng chương trình tiếng dân tộc được tăng thêm.
Lĩnh vực thể dục – thể thao có nhiều chuyển biến, phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh; tỷ lệ dân số tập luyện thể thao thường xuyên tăng 7%. Thể thao thành tích cao (điền kinh, bơi lội, võ vật,…) luôn đứng ở tốp đầu cả nước, giành nhiều huy chương tại các giải quốc gia, quốc tế và có nhiều đóng góp cho thể thao nước nhà.
Trong 5 năm đã giải quyết việc làm cho trên 300 nghìn lao động, trong đó có 45,8 nghìn người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 4,15% giảm xuống 3,7%, tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn từ 7,3% giảm xuống 6,7%, đạt mục tiêu đại hội. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3,57%/năm, đạt mục tiêu đại hội. Chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng; huy động toàn xã hội tích cực tham gia phong trào đền ơn, đáp nghĩa, trợ giúp người có hoàn cảnh khó khăn, bị thiên tai, không nơi nương tựa.

Câu 4: Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên – môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đạt được những kết quả như thế nào?
Trả lời:
Trong nhiệm kỳ 2010 – 2015, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đã đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể:
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, khoáng sản được thực hiện theo pháp luật, đã giải quyết một bước tình trạng khai thác, vận chuyển khoáng sản, cát, sỏi trái phép. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện được phê duyệt; hoàn thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đạt 97,9%. Công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất, hoạt động khai thác khoáng sản được tăng cường.
Đã tập trung chỉ đạo khắc phục ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, các bệnh viện, nơi công cộng. Triển khai nhiều dự án cải tạo, nâng cấp, chống sạt lở đê sông, đê biển; hoàn thành kế hoạch trồng rừng tập trung, trồng rừng ngập mặn ven biển; phê duyệt 11 dự án bố trí, ổn định dân cư các vùng thiên tai; triển khai phương án phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ, hạn chế thấp nhất thiệt hại xảy ra.

Câu 5: Công tác quốc phòng – an ninh, đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt được những kết quả như thế nào?
Trả lời:
Quốc phòng – an ninh trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đối ngoại, hợp tác quốc tế được mở rộng, mang lại hiệu quả tích cực.
Về quốc phòng – an ninh:
Chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân được củng cố vững chắc.
Công tác xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu và thực hiện dân chủ ở cơ sở được tiến hành thường xuyên, có chất lượng.
Lực lượng quân sự, công an, biên phòng nắm chắc tình hình, đấu tranh ngăn chặn làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tham mưu giải quyết có hiệu quả các vấn đề nổi cộm, bức xúc trong nhân dân, không để xảy ra “điểm nóng”.
Các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, tệ nạn xã hội và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai đồng bộ; nhiều băng, nhóm tội phạm nguy hiểm được triệt phá; tai nạn giao thông, cháy, nổ được kiềm chế, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế – xã hội.
Hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật, cơ bản không để xảy ra các vụ án oan, sai; nhiều vụ án trọng điểm, phức tạp được điều tra, truy tố, xét xử kịp thời; thi hành án hình sự, dân sự được bảo đảm; hoạt động bổ trợ tư pháp được đổi mới và từng bước hoàn thiện. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm, giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài.
Về đối ngoại, hợp tác quốc tế:
Quan hệ hợp tác của tỉnh với đại sứ quán các nước tại Việt Nam, với các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, các tập đoàn kinh tế, các tỉnh, thành phố trong và ngoài nước được mở rộng, đi vào thực chất và hiệu quả hơn. Hợp tác toàn diện với tỉnh Hủa Phăn (CHDCND Lào) được tăng cường; mở rộng quan hệ và ký kết thỏa thuận hợp tác với thành phố Seongnam (Hàn Quốc), tỉnh Mittelsachen (CHLB Đức), tỉnh Xiêng Khoảng (CHDCND Lào). Hoạt động đối ngoại nhân dân được quan tâm, góp phần mở rộng quan hệ với bạn bè quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tuyên truyền quảng bá về con người, văn hóa Xứ Thanh. Công tác đối với người Thanh Hóa ở nước ngoài có chuyển biến, giúp kiều bào hiểu thêm về tình hình tỉnh nhà và đã có những việc làm thiết thực để chung sức xây dựng quê hương.

Câu 6: Các chương trình trọng tâm được triển khai và đạt kết quả như thế nào?
Trả lời:
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010 – 2015 đã đề ra 5 chương trình trọng tâm; sau 5 năm tổ chức triển khai thực hiện, kết quả cụ thể như sau:
1- Chương trình phát triển Khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp, khu công nghệ cao đạt kết quả quan trọng:
Kết cấu hạ tầng được đầu tư theo hướng đồng bộ, hiện đại. Đã điều chỉnh quy hoạch mở rộng Khu kinh tế Nghi Sơn, quy hoạch và triển khai bước đầu Khu công nghiệp Lam Sơn – Sao Vàng.
Trong 5 năm, đã thu hút 115 dự án (09 dự án FDI) với tổng vốn đăng ký 39.777 tỷ đồng và 2.453,34 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn đầu tư 26 dự án (08 dự án FDI) với tổng vốn tăng thêm 18.225 tỷ đồng và 3.122 triệu USD; tổng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp ước đạt 67.000 tỷ đồng; nộp ngân sách 13.500 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu kế hoạch; giải quyết việc làm cho 63.700 lao động. Một số dự án trọng điểm, có tác động lan tỏa lớn được đẩy nhanh tiến độ, đặc biệt dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn. Năng lực bốc xếp hàng hóa qua Cảng Nghi Sơn năm 2015 ước đạt 10 triệu tấn, gấp 2,5 lần năm 2010.
2- Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực:
Tốc độ tăng trưởng ngành nông, lâm, thủy sản; sản lượng lương thực; tỷ lệ dân số nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh… vượt kế hoạch; nhiều mô hình sản xuất có giá trị thu nhập cao được nhân ra diện rộng.
Việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh theo Nghị quyết số 16-NQ/TU của Tỉnh ủy được tập trung chỉ đạo.
Xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc; một số địa phương có cách làm sáng tạo, phù hợp điều kiện thực tế, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Dự kiến cuối năm 2015 có 86 xã và 36 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới.
3- Chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền Tây được tập trung chỉ đạo:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ước đạt 10,2%. Sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt kết quả khá; các vùng trồng cây nguyên liệu gắn với chế biến phát triển ổn định. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ước tăng 12,4%/năm; một số dự án công nghiệp – giải quyết nhiều việc làm được đầu tư vào khu vực. Các ngành dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội được tăng cường.
Các hoạt động văn hóa – xã hội có chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện; các chỉ tiêu chủ yếu về môi trường đều vượt và hoàn thành kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 giảm còn 15,5%, bình quân mỗi năm giảm 6,16%, vượt kế hoạch. An ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.
4- Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng biển:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt 12,5%/năm. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, giá trị sản xuất ước tăng 14,2%. Dịch vụ phát triển nhanh, đa dạng. Hạ tầng giao thông, điện, thông tin liên lạc, hạ tầng nghề cá, các cơ sở lưu trú du lịch tại Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải Hòa được đầu tư, nâng cấp; môi trường du lịch, văn hóa du lịch chuyển biến tiến bộ, du khách đến thăm quan, nghỉ dưỡng ngày càng tăng; giá trị hàng hóa và dịch vụ, xuất khẩu năm 2015 ước đạt 521,6 triệu USD, vượt mục tiêu. Sản xuất nông nghiệp đạt kết quả toàn diện; việc đưa cơ giới hóa và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất chuyển biến rõ nét.
5- Chương trình phát triển nguồn nhân lực đạt kết quả bước đầu:
Năm 2015, toàn tỉnh có 2.167 nghìn lao động làm việc trong nền kinh tế; bình quân mỗi năm có trên 73 nghìn lao động qua đào tạo; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 55% năm 2015, đạt mục tiêu đại hội.
Cơ cấu lao động chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ.
Các cơ sở đào tạo nghề phát triển cả về số lượng và chất lượng, đội ngũ cán bộ, giáo viên được nâng cao trình độ và cơ bản đạt chuẩn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được chú trọng; việc thực hiện đề án liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài đã góp phần tăng cường nguồn cán bộ chất lượng cao cho tỉnh.

Câu 7: Công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 2010 – 2015 đạt được những kết quả như thế nào?

Trả lời:
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên, cụ thể là:
1- Công tác chính trị, tư tưởng có sự đổi mới cả về nội dung, phương pháp, hình thức tiến hành và mang lại hiệu quả thiết thực:
Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị tư tưởng, chú trọng nâng cao hiệu quả quán triệt, triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, đạo đức, lối sống, bồi dưỡng kiến thức mới, tạo sự chuyển biến về nhận thức, khơi dậy lòng tự hào, tinh thần yêu quê hương, đất nước, lao động sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân, phấn đấu xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh khá của cả nước.
Các hoạt động thông tin, báo chí đã tập trung tuyên truyền chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh, cổ vũ các nhân tố mới, mô hình mới, các phong trào thi đua yêu nước. Công tác báo cáo viên, tuyên truyền viên được quan tâm; cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện phục vụ công tác tuyên giáo được tăng cường. Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện được đầu tư xây dựng; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên; đã có 7 Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn.
2- Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ, có nhiều đổi mới, đạt kết quả khá toàn diện:
Tổ chức bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo tinh thần Kết luận Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”, gắn với bổ sung, ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức và quy định cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Đã triển khai nhiều giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nhất là các chi bộ đảng ở khu dân cư.
Chú trọng tạo nguồn bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới, nhất là ở những nơi còn ít, nơi chưa có đảng viên; trung bình mỗi năm kết nạp trên 7.000 đảng viên, đến nay tất cả các thôn, bản đều có đảng viên, không còn chi bộ sinh hoạt ghép, hoàn thành mục tiêu đại hội.
Các cấp ủy đảng đã cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc quy định của Trung ương, của Tỉnh ủy về công tác cán bộ. Chất lượng công tác quy hoạch cán bộ được nâng lên, khắc phục một bước tình trạng khép kín, đảm bảo tính liên thông giữa các ngành, địa phương; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cán bộ.
Việc điều động, luân chuyển cán bộ có bước đột phá, đã luân chuyển một số cán bộ lãnh đạo, quản lý không phải là người địa phương; luân chuyển từ tỉnh về địa phương và từ các địa phương về tỉnh công tác; luân chuyển ngang ở từng địa phương. Cụ thể: tỉnh đã điều động, luân chuyển 47 cán bộ; cấp huyện điều động, luân chuyển 150 cán bộ từ huyện xuống xã và từ xã lên huyện; luân chuyển 130 đồng chí từ xã này sang xã khác. Tuyển chọn và đưa 1.500 người có trình độ đại học chính quy về công tác tại xã, phường, thị trấn.
Chính sách cán bộ, công tác thi đua – khen thưởng được thực hiện kịp thời. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, quản lý, bổ sung hồ sơ, lý lịch cán bộ, đảng viên được thực hiện theo quy định.
3- Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường:
Đã rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định, quy chế, quy trình kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, tạo sự thống nhất trong nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và của cấp ủy các cấp trong việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; chấp hành quy chế làm việc; Quy định những điều đảng viên không được làm; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; khắc phục sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính… Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trong nhiệm kỳ, cấp ủy và tổ chức đảng các cấp đã kiểm tra 7.340 lượt tổ chức đảng, 24.845 lượt đảng viên; tiến hành giám sát đối với 5.305 lượt tổ chức đảng, 22.319 lượt đảng viên. Ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 4.871 lượt tổ chức đảng, 16.581 lượt đảng viên; phát hiện và kiểm tra 392 tổ chức đảng cấp dưới, 2.275 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; kịp thời giải quyết tố cáo đối với 23 tổ chức đảng và 840 đảng viên; giải quyết 30 lượt khiếu nại về kỷ luật đảng; kiểm tra tài chính đảng đối với 171 tổ chức đảng. Đã thi hành kỷ luật 50 tổ chức đảng (giảm 38 tổ chức đảng so với nhiệm kỳ trước), bằng các hình thức: khiển trách 41, cảnh cáo 9; đã thi hành kỷ luật 2.433 đảng viên (giảm 568 đảng viên), trong đó có 815 cấp ủy viên các cấp, chiếm 33,5%, bằng các hình thức: khiển trách 1.354, cảnh cáo 732, cách chức 112, khai trừ 235; đảng viên bị xử lý bằng pháp luật 130 (tăng 16 trường hợp).

Trên đây chúng tôi đã chia sẻ đến các bạn bài thu hoạch học tập nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Hy vọng bài viết này của chúng tôi sẽ giúp các bạn có những hiểu biết hơn nữa. Đồng hành cùng nhandaovadoisong.com.vn để theo dõi những bài viết hấp dẫn hơn nữa nhé!

Tài Liệu -